1. Người Vân Kiều (còn gọi là người Bru)
Vốn là cư dân nông nghiệp có trình độ tương đối phát triển, tập trung sinh sống tại vùng trung Lào, sau những biến động của lịch sử diễn ra nhiều thế kỷ, họ phải di cư đi các nơi. Một số đi theo hướng Tây Bắc sang Thái Lan, một số đi theo hướng Đông tụ lại vùng miền núi phía Tây Quảng Bình, họ dựng làng xung quanh hòn núi Vân Kiều (núi Viên Kiều), về sau người Việt lấy tên của hòn núi đặt cho một tổng của người Bru, và từ đó họ còn được gọi là Bru - Vân Kiều. Ngôn ngữ của họ thuộc nhóm ngữ hệ Môn-Khơ Me, bên cạnh những nét văn hóa truyền thống, họ có tư duy sống không khác mấy so với người Kinh.
2. Người Arem (nằm trong nhóm tộc người: Arem, Chứt, Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, Xá Lá Vàng)
Ngôn ngữ Arem thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường. Các nhà khoa học khẳng định, người Arem có gia tài văn hóa rất đặc biệt. Họ có ngôn ngữ, có phong tục với những bí ẩn lạ lẫm, chưa khám phá hết. Năm 1956 khi lần đầu tiên người Arem được phát hiện ở Quảng Bình, họ chỉ có chưa đến 100 người. Cuộc sống người Arem nguyên thủy trong những hang đá hoặc dưới rèm đá ở rừng già Phong Nha - Kẻ Bàng (huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình). Thời điểm đó, người ta cho rằng người Arem ngoài cuộc sống ''ăn lông ở lỗ'' ra họ không có bất cứ tài sản nào về tinh thần. Thế nhưng mới đây, người Arem đã là cho mọi người phải ngạc nhiên. Nếu ta gặp bất cứ một người Arem nào và hỏi: Thuộc tộc người nào? Người Arem sẽ không ngần ngại nói: ''Chăm rău Arem'' nghĩa là ''tôi là người Arem''.
3. Người Ma Coong
Người Ma Coong thuộc tộc Bru Vân Kiều, cư trú thành từng bản làng nhỏ, rải rác từ biên giới Việt - Lào. Bản Cà roòng (xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình) mảnh đất linh thiêng của người Ma Coong. Nơi đây còn lưu giữ nhiều phong tục, tập quán mang đậm bản sắc văn hóa như lễ hội đâm trâu, lễ hội đập trống (đánh trống)... Lớn nhất là lễ hội đập trống. Ngoài ý nghĩa cầu mùa màng bội thu, lễ hội này còn có một tập tục tương tự như đêm chợ tình Khâu Vai, là nơi giao duyên, gặp gỡ của đôi lứa nên có sức hấp dẫn rất lớn. Hằng năm vào ngày 16 thánh Giêng, người Ma Coong cả già lẫn trẻ, diện những bộ áo quần đẹp nhất, ở khắp các bản gần xa, thậm chí đồng bào Ma Coong ở tận nước bạn Lào cũng kéo nhau về bản Cà Roòng tham gia lễ hội đập trống.
4. Người Khùa
Người Khua sống hòa mình với thiên nhiên và vẫn duy trì được nhiều tục lệ riêng hết sức nhân văn nơi những triền núi phủ lau ngút ngàn ở miền Tây huyện Minh Hóa, Quảng Bình.
Tộc người Khùa rất coi trọng việc ứng xử với tự nhiên. Với rừng, họ thờ thần rừng, với sông suối họ thờ thần nước... Các loại thần, với người Khùa đều đồng nghĩa với ma. Một người am hiểu dân tộc mình, nói rằng: ''Cái nơi ta sống có nhiều ma, nên nhà ai cũng có bậc cửa vào ra để thờ ma. Ma làm cho người của ta sợ, ma cũng làm cho người của ta thích kể chuyện, ma làm cho người Khua biết hát, biết uống rượu, ma làng cho người Khua biết sinh con đẻ cái...''. Những hiện tượng thiên nhiên, ốm đau, bệnh tật, không lý giải được người Khùa cho đó là ma và tổ tiên người Khùa đã sáng chế ra một vật thiêng, được coi như vị thần tối thượng điều khiển được ma, ấy là ''Tà Riềng''. Tà riềng là một loại khèn có tiếng nỉ non được thổi lên từ lồng ngực những người thông thái nhất bản sẽ đưa lại sự bình an cho người dân. Khèn Tà Riềng làm từ cây lồ ô nhỏ của vùng núi cao nhất bản, thanh âm trong vắt vỗ về ma trú ngụ trong từng căn nhà, để ma phù hộ cho người Khùa tai qua nạn khỏi, mùa màng khấm khá. Ngoài ra tiếng nỉ non của Tà Riềng còn làm cho những món ăn aboong, adoong, abiing ngon hơn từ cá suối, cá khe.